Tổng cục Thuế nhận
được công văn số 4238/NHNo-TCKT ngày 24/5/2019 của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam đề nghị hướng dẫn xác định thu nhập chịu thuế thu
nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công những ngày không nghỉ
phép. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại Khoản 1 Điều 111
Bộ Luật lao động năm 2012 quy định về ngày nghỉ hàng năm như sau:
“Điều 111. Nghỉ hằng
năm
1. Người lao động có
đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng
nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:
a) 12 ngày làm việc
đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;
b) 14 ngày làm việc
đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở
những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành hoặc lao động chưa
thành niên hoặc lao động là người khuyết tật;
c) 16 ngày làm việc
đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người
làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt theo danh mục
do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.”
Tại Khoản 1 Điều 114
Bộ Luật lao động năm 2012 quy định về việc thanh toán tiền lương những ngày
chưa nghỉ phép như sau:
“Điều 114. Thanh
toán tiền lương những ngày chưa nghỉ
1. Người lao động do
thôi việc, bị mất việc làm hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hằng năm hoặc
chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày
chưa nghỉ.”
Tại điểm a Khoản 2
Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn
các khoản thu nhập chịu thuế như sau:
“2. Thu nhập từ tiền
lương, tiền công
Thu nhập từ tiền
lương, tiền công là thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động,
bao gồm:
a) Tiền lương, tiền
công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công dưới các hình thức bằng tiền
hoặc không bằng tiền.”
Căn cứ điểm i Khoản
1 Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn
các khoản thu nhập được miễn thuế như sau:
“i) Thu nhập từ phần
tiền lương, tiền công làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền
lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ theo quy định của Bộ luật
Lao động. Cụ thể như sau:
i.1) Phần tiền
lương, tiền công trả cao hơn do phải làm việc ban đêm, làm thêm giờ được miễn
thuế căn cứ vào tiền lương, tiền công thực trả do phải làm đêm, thêm giờ trừ
(-) đi mức tiền lương, tiền công tính theo ngày làm việc bình thường.
...
i.2) Tổ chức, cá
nhân trả thu nhập phải lập bảng kê phản ánh rõ thời gian làm đêm, làm thêm giờ,
khoản tiền lương trả thêm do làm đêm, làm thêm giờ đã trả cho người lao động. Bảng
kê này được lưu tại đơn vị trả thu nhập và xuất trình khi có yêu cầu của cơ
quan thuế.”
Tại công văn số
64/QHLĐTL-TL ngày 21/02/2020 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có ý kiến
về ngày chưa nghỉ phép hàng năm như sau: trường hợp người sử dụng lao động đã
quy định lịch nghỉ hàng năm theo quy định tại Khoản 2 Điều 111 Bộ Luật Lao động,
nhưng vì một lý do nào đó người sử dụng lao động yêu cầu người lao động đi làm
vào những ngày nghỉ hàng năm thì thời gian này là thời gian làm thêm giờ.
Căn cứ quy định hiện
hành và ý kiến của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trường hợp Ngân hàng
nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam yêu cầu người lao động làm việc
vào ngày nghỉ phép hàng năm và thanh toán tiền lương cho những ngày này theo
hình thức làm thêm giờ thì phần thu nhập trả cao hơn so với tiền lương ngày làm
việc bình thường theo quy định của Bộ luật Lao động là thu nhập miễn thuế thu
nhập cá nhân theo hướng dẫn tại điểm i Khoản 1 Điều 3 Thông tư số
111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính.
Tổng cục Thuế thông
báo để Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được biết.
Xem văn bản gốc: